Xe đò ngày xưa

 

Ngày xưa, cách đây phải đến hai mươi mấy năm, khi tôi bắt đầu vào học chuyên nghiệp, việc đi lại khó khăn lắm. Thời gian đó phương tiện phổ biến chỉ có xe đạp và xe khách, hay còn gọi là xe ca. Xe máy thì hầu như không có. Nhà tôi ở giữa trung tâm thị trấn của một huyện miền núi, nằm giữa hành trình từ thành phố Thái Nguyên sang thị xã Tuyên Quang. Hẳn hoi là một tuyến quan trọng, ấy vậy mà mỗi ngày cũng chỉ có một lượt xe chở khách ngược và một lượt xe chở khách xuôi đi qua.

Tức là cùng một chiếc xe, sáng sớm chạy từ bến tỉnh này sang bến tỉnh kia trả khách, chiều lại chở khách chạy ngược về. Thế nên hàng ngày, cứ khoảng 9 giờ 30 đến 10 giờ sáng là xe khách chạy qua nhà tôi lượt đi, và từ 1 đến 2 giờ chiều xe lại chạy qua lượt về. Ngày nào cũng như ngày nào, trừ những hôm có mưa bão hoặc lũ quét.

Lần đầu tiên đi xe khách của tôi chính là lần đầu tôi sang nhập học ở thành phố Thái Nguyên. Hôm đó tôi may mắn được nhét lên một chiếc ca hiệu Hòa Bình, còn mới. Đây là loại xe chở khách “xịn” nhất thời bấy giờ, xe do Nhà máy ô tô Hòa Bình mãi tận Hà Nội đóng trên khung bệ chiếc xe IFA của Cộng hòa Dân chủ Đức. Đó là tôi nghe lỏm được từ các chú lái xe kháo nhau.

Tôi còn nhớ, hồi ấy gần nhà tôi có một chú được giao một chiếc xe Zin130 mới của Liên Xô. Nhận xe, chú ấy khao to ơi là to. Thế nên tôi mới đoán, ai mà nhận được chiếc xe khách như thế này chắc phải khao cả chục mâm cỗ. Tôi cũng nghe mọi người rỉ tai nhau, lái xe khách thì ngoài việc kiếm được nhiều tiền còn rất được trọng vọng. Ai muốn có chỗ ngồi tốt, hay muốn đi lại thuận tiện mà quen được lái xe khách thì đúng là nhất. Thời buổi bao cấp “nhất thương nhì thực”. Cái gì cũng “nhất thân nhì quen”.

Từ chuyện xe cộ, tôi lại nhớ đến một chuyện rất buồn cười của thời đó. Nhà nào mà quen thân với chú canh vé ở rạp chiếu bóng thì hỉ hả lắm, vì thi thoảng được cho vào xem miễn phí. Oách lắm.

Trong thời gian học, cứ mỗi tháng tôi lại ra bến bắt xe về quê một lần. Phần vì nhớ nhà, nhớ bạn, phần vì phải về quê lấy gạo, muối và một ít tiền để ăn uống, sinh hoạt. Có bận hết gạo, vác cả sắn, khoai, tóm lại có gì mang được là mang, kiểu tăng xin giảm mua ấy mà. Thiếu thốn vậy mà chúng tôi lạc quan, yêu đời lắm, thấy cuộc đời cứ phơi phới, chẳng có gì phải bận tâm. Bây giờ nhớ lại thấy hồi đó sao mà vô tư, đơn giản đến thế.

Trốn vé xe là một trong những trò chúng tôi thích thú. Thứ nhất, nó không làm hao đi cái túi tiền vốn đã luôn ốm tong teo của sinh viên. Thứ hai, ngồi xe mà không mất tiền thì càng kích thích tính hiếu thắng của tuổi mới nhớn, thế nên chúng tôi càng hay nhảy xe tự miễn phí về nhà. Thứ ba, về nhà thì được hẳn mấy cái lợi: được ăn cơm ngon, nhà rõ là ngon hơn ký túc; đỡ phải xin tiền vì xin nhiều quá cũng ngượng với bố mẹ. Thứ tư, trốn vé còn được xem như một kiểu yêng hùng của bọn sinh viên chúng tôi.

Ngày đó sinh viên không có nhiều trò. Cùng lắm là chơi tú lơ khơ, phạt quỳ, phạt bôi nhọ mặt, anh nào oách thì gảy đàn ghi ta phập phừng, sang trường sư phạm tán gái. Thế nên trốn vé giống như một thỏa mãn tâm lý. Mỗi lần trốn được vé là sướng lắm, kể lại thì mặt cứ vênh lên. Nghĩ lại thấy ngượng mà buồn cười.

Xe khách thời đó đông khủng khiếp, chất như nêm, nóng như đổ lửa. Đông, chật còn hơn xe buýt quá tải bây giờ, mà thời đó lại không có điều hòa. Khách lên được xe là may lắm rồi, không có chuyện đi lại mà chỉ co chân, duỗi chân để chống tê, chống xuống máu. Nhưng chính sự đông đúc đó lại là kẽ hở để chúng tôi nghĩ ra cách trốn vé.

Chúng tôi nắm được quy luật: trước giờ xuất bến khoảng một tiếng, phụ xe mở cửa phụ ở cuối xe để soát vé. Khi khách bâu kín, chúng tôi lẻn sang hông xe bên trái, trèo chui vào qua chấn song cửa sổ. Xe ca thời đó không có cửa kính kín như bây giờ mà chỉ có mấy chấn song sắt hàn chạy dọc thân xe. Khe giữa các chấn song rộng lắm. Nhỏ vậy mà bọn tôi vẫn chui lọt ngon lành. Có hôm riêng đám chúng tôi chui được năm, sáu đứa mà nhà xe không phát hiện. Tôi nghĩ ngoài chúng tôi còn nhiều đám khác, có khi mỗi chuyến trốn vé cả chục người.

Có một thời gian, không hiểu vì sao những chiếc xe khách đẹp bị điều đi đâu, hay chuyển tuyến khác. Tuyến nhà tôi được thay bằng loại xe bánh cao hơn, khỏe hơn. Chúng tôi gọi đó là xe chuồng lợn. Không biết ai nghĩ ra cái tên ấy nhưng ai cũng gọi vậy. Bây giờ thi thoảng gặp xe chở gia súc, tôi lại thấy bóng dáng ngày xưa.

Loại xe này cải tiến từ xe Zin130 thùng gỗ. Người ta lợp thêm mui tôn hoa để chở khách. Thùng xe bố trí hai hàng ghế, mỗi hàng ba chỗ, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ba người ngồi, toàn năm, sáu người chồng lên nhau. Hai bên thành xe có ô thoáng đóng bằng các thanh sắt chữ V, khe chỉ khoảng 20 cm, không thể chui. Cửa hậu cũng hàn chấn song, chỉ để lại một ô khoảng một mét làm cửa lên xuống. Trên nóc có giá để hàng, xe đạp.

Ban đầu dùng loại xe này, chúng tôi đành ngậm ngùi móc hầu bao trả vé. Nhưng nhờ là sinh viên, xin xỏ mãi thường chỉ phải trả nửa tiền. Sau một thời gian ngâm cứu, chúng tôi nghĩ ra một chiêu khác. Vì cửa hậu không đóng kín, khi soát vé xong phụ xe thường leo lên cabin và xe chuyển bánh. Lúc xe chạy chậm, chúng tôi đuổi theo bám thành xe mà trèo vào thùng. Có hôm đông quá phải trèo cả lên nóc. Ngồi nóc xe thích lắm. Gió mát, ngắm cảnh đã đời.

Giờ nghĩ lại mới thấy sợ. Đường đèo ngày đó nhỏ, quanh co, ổ voi là chính. Xe lắc mạnh, nghiêng bên này, ngả bên kia như chỉ chực lao xuống vực. Tôi thót tim, cả đám hét rú lên. Nhưng qua khúc đó là quên ngay.

Nhà xe cũng ranh. Biết có trốn vé nên cảnh giác, nhất là khi bến đông mà xe chỉ có vài khách. Có lần một cậu trong đám tôi bị bắt vì đứng nghênh ngang gần xe, bị phụ xe nhớ mặt, lôi lại bắt mua vé bù, suýt nữa ăn cái bợp tai. Từ đó, chúng tôi lượn xa xa, chỉ phi tới khi xe bắt đầu chạy.

Nhà xe đối phó bằng cách leo cabin ngay sau khi đóng cửa thùng và cho xe chạy nhanh. Vì vậy tụi tôi bị rớt mấy lần. Chúng tôi bày mưu mới. Một là áp dụng cách cũ, hai là nhờ bạn tiễn chạy xe đạp chậm trước đầu xe hoặc giả vờ xe đạp hỏng giữa đường để tạo cớ bám lên thùng.

Bao nhiêu năm qua, thi thoảng chúng tôi ngồi ôn lại kỷ niệm. Trốn vé xe không phải điều hay, nhưng lúc đó chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản: đi không mất tiền thì đỡ xin bố mẹ, thêm chút nghịch ngợm tuổi trẻ. Không hề có ý phá phách hay ngông cuồng. Chuyện đó thời ấy chẳng bị coi là xấu. Nếu bị phát hiện thì mua vé bù, cùng lắm ăn cái dọa bợp tai. Những kỷ niệm đó gợi cho chúng tôi nhớ về một thời tuổi trẻ khó khăn nhưng lạc quan. Chúng tôi mang theo như một phần hành trang để không quên thời đó, không quên cơ hội mà mình có được hôm nay. Và nó giúp chúng tôi thêm lạc quan để vượt qua khó khăn hiện tại.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2011
Lương Đình Hùng


go top